KHỦNG HOẢNG COVID RỒI CŨNG SẼ QUA ĐI VÀ “NGÀY MAI TRỜI LẠI SÁNG”

“Covid-19 đến rồi cũng sẽ đi, doanh nhân cần giữ vững niềm tin vào chính mình, vào sản phẩm và vào khả năng vượt khó của mình. Vượt qua khủng hoảng niềm tin có lẽ là điều doanh nhân cần phải làm trong lúc này. Sự tồn tại hay sống còn của doanh nghiệp trong và sau thảm họa là thước đo của sự bền vững, khả năng chống đỡ hay thành công của doanh nghiệp đó trong tương lai. Ngày mai trời lại sáng là điều hiển nhiên!”

Một số chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch COVID-19

Trong những tháng cuối năm 2020 này, nhiều tổ chức trong nước và quốc tế đã có những phân tích, đánh giá tác động của đại dịch Covid-19 và xây dựng các kịch bản mới về tăng trưởng kinh tế cho Việt Nam và trên thế giới năm quý IV 2020 và năm 2021. Theo kịch bản cơ sở của nhiều nghiên cứu, kinh tế thế giới sẽ suy thoái, tăng trưởng -2,3% năm 2020 (so với mức tăng trưởng 2,6% năm 2019). Tăng trưởng GDP của Trung Quốc chỉ khoảng 2,4% (so với mức tăng 6,1% năm 2019), của Mỹ -2,6% (so với mức tăng 2,3% năm 2019), của Nhật Bản -1,9% (so với mức tăng 0,7% năm 2019) còn khu vực đồng tiền chung châu Âu thậm chí tăng trưởng -8,4% (so với mức tăng trưởng 1,2% năm 2019). Tại Việt Nam, năm 2019, trong bối cảnh đất nước bị ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch Covid-19 đặc biệt là tác động, ảnh hưởng của thiên tai, tình hình kinh tế khu vực và thế giới, nhưng Việt Nam
vẫn đạt được các chỉ tiêu của Quốc hội đề ra, đặc biệt là 12 chỉ tiêu chủ yếu. Việt Nam vẫn tiếp tục là một điểm sáng trong khu vực và toàn cầu. Việt Nam được xem là một trong những nền kinh tế tốt nhất thế giới để đầu tư năm 2019, tăng 15 bậc và hiện đang xếp thứ 8 so với năm 2018. Doanh nghiệp Việt Nam rất năng động và đang đóng góp tích cực vào kết quả tăng trưởng kinh tế của cả nước năm 2019, đóng góp trên 60% vào GDP. Tuy nhiên kịch bản tăng trưởng kinh tế sẽ phải được thường xuyên cập nhật và sẽ còn thay đổi; mức độ như thế nào còn tùy thuộc vào 3 yếu tố: thứ nhất, khả năng kiểm soát dịch bệnh của mỗi quốc gia, nhất lả các quốc gia có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam như Hoa Kỳ, khối ASEAN, Trung Quốc và Châu Âu; thứ hai, tác động và hiệu quả của các chính sách/ gói hỗ trợ của Chính phủ Việt Nam; thứ ba, hiệu quả hợp tác quốc tế (trong phòng chống đại dịch) giúp Việt Nam và các nước mở cửa trở lại.

Cấm đường cho người dân cổ vũ trận Việt Nam – Thái Lan - Thời Đại

Thống kê lịch sử cho thấy cứ khoảng 100 năm lại xuất hiện đại dịch, lịch sử loài người đã xuất hiện nhiều dịch bệnh rất khủng khiếp đối với loài người như đại dịch tả bắt đầu từ Ấn Độ năm 1817 làm cho hơn 1 triệu người chết; đại dịch cúm Tây Ban Nha 1918-1920 có 500 triệu người bị nhiễm và hơn 50 triệu người chết,… Dịch bệnh bao giờ cũng đi trước khoa học và sau thời gian ngắn, khoa học sẽ phải đối mặt và tìm ra hướng giải quyết cho vấn đề này. Trong tương lai sẽ cũng còn xuất hiện những dịch bệnh khác. Các chính sách chỉ là để đáp ứng lại hay phòng chống điều gì đang xảy ra thôi. Khủng hoảng nào đến rồi cũng sẽ qua. Vấn đề là khi nào vượt qua được.

Những gì Chính phủ Việt Nam đang làm không những cần thiết mà còn thành công trong việc dâp tắt sự bùng phát của đại dịch Covid-19 trong năm 2020. Chính phủ đã có nhiều chương trình y tế, biện pháp phòng dịch, chống dịch, và bảo vệ người dân. Nhìn lại các đại dịch trong quá khứ, người dân và doanh nghiệp cần phải hiểu và nắm rõ 2 điều: thứ nhất, không nên hoảng lọan và luôn tuân thủ những quy tắc an tòan cũng như khuyến cáo của Chính phủ; thứ hai đại dịch thể nào rồi cũng qua đi khi có thuốc đặc trị và các loại vắc xin. Hiện tại Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nga đã có vắc xin và thuốc đặc trị, trong một thời gian ngắn nữa sẽ được đưa ra thị trường thế giới.

Khủng hoảng quan trọng nhất thường là khủng hoảng niềm tin, vào các cơ quan chính quyền đang hành động mạnh mẽ để dập tắt đại dịch, vào chính bản thân của doanh nhân và doanh nghiệp của họ, vào các biện pháp, phát minh y tế, khoa học, vào sự tái phát triển kinh tế. Doanh nhân cần hợp tác với nhau, đồng hành với các tổ chức Chính phủ, để tính toán việc tái phát triển kinh tế một khi đại dịch đi qua.

Da bạn vẫn đẹp dù đeo khẩu trang

Khủng hoảng niềm tin là khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp cần phải vượt qua. Doanh nghiệp cần phải tìm ra phương án ứng phó và phù hợp với hoàn cảnh của mình. Không ai ứng phó khủng hoảng tốt hơn là chính doanh nghiệp của mình. Bởi chỉ có doanh nghiệp mới biết rõ tình hình tài chính và sức khoẻ của mình. Để vượt qua những khó khăn do dịch bệnh gây ra cần phải cắt giảm các chi phí; thay đổi sản phẩm, phương pháp làm việc. Còn nước còn tát. Ánh sáng cuối đường hầm là nơi mà chúng ta muốn đạt đến. Còn niềm tin là còn hy vọng phục hồi.

Đại dịch bộc lộ nhược điểm của nền kinh tế toàn cầu, khi các nước bị lệ thuộc nhiều vào nguồn cung của các nước khác. Việt Nam là thành viên kinh tế nhỏ bé trên thế giới, chúng ta mua lại nguyên liệu, chế biến rồi xuất khẩu. Khi nguồn cung hay đầu vào của chuỗi cung ứng của chúng ta bị tác động tiêu cực, nền kinh tế sản xuất và dựa vào xuất khẩu của chúng ta bị khủng hoảng ngay. Đây cũng là thời điểm cần đặt vấn đề làm thế nào để nền kinh tế của chúng ta có thể tự lực cánh sinh, tránh lệ thuộc qúa nhiều vào một vài đối tác. Có thể một thời gian nữa dịch bệnh sẽ là câu chuyện của quá khứ, hệ quả để lại là câu chuyện khác. Doanh nghiệp có tồn tại được không.

Câu chuyện là sẽ làm gì sau di chứng của Covid-19. Nhiều ngành nghề phục vụ cộng đồng như du lịch bị ảnh hưởng lớn, trực tiếp, trong thời gian vừa qua và trước mắt. Ngoài ra nhiều ngành nghề khác sẽ bị ảnh hưởng lâu dài hơn. Lấy ví dụ như bất động sản sau thời gian bùng nổ trên thị trường rồi bây giờ đi xuống cùng với sự bùng phát của dịch bệnh. Theo đó, nhiều tổ chức và nhà đầu tư găm giữ tiền mặt bởi tiền mặt trong khủng hoảng được gọi là vua. Vậy, giải pháp nào cho thị trường này trong vài ba năm tới hoặc lâu dài hơn. Đây có lẽ là một vấn đề Chính phủ rất cần quan tâm, vì bất động sản gắn liền với thị trường tài chính, bảo hiểm, và là tài sản lớn của người dân và doanh nghiệp.

Có 3 mô hình ứng phó trong thời gian ngắn. Thứ nhất, tạm đóng cửa hoặc tạm giải quyết chi phí trước mắt. Đây là điều rất quan trọng bởi khi chi phí cao mà không có doanh thu sẽ đem đến sự khủng hoảng. Vì vậy doanh nghiệp có thể tạm đóng cửa một thời gian để xem xét tình hình, nếu cần có thể tạm dừng hoạt động lâu hơn. Thứ hai, giảm 50-100% lương lãnh đạo so với trước dịch, hoặc lãnh đạo không nhận lương trong vòng 3-6 tháng. Kêu gọi sự đóng góp hay ủng hộ giảm lương của các thành phần trong doanh nghiệp cũng là một phương án tốt. Thứ ba, đàm phán với chủ đất, ngân hàng, nhà cung cấp đề trả nợ chậm. Trong các hợp đồng bao giờ cũng có điều khoản bất khả kháng như dịch bệnh, thiên tai dịch hoạ, nên có thể đàm phám cơ cấu lại nợ.

Giữa "tâm bão" Covid-19, ADB dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2020  đạt 4,8%

Nền kinh tế Việt Nam sẽ vực dậy được theo xu hướng chung và Việt Nam có thể đang trong mô hình chữ U đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nghĩa là, nhu cầu bị dồn nén sẽ được giải phóng một phần nhờ nỗ lực kích thích của Chính phủ, nhưng người tiêu dùng có thể không sẵn sàng cho việc trở lại mua sắm. Điều này là bởi các nhà máy cần có thời gian để phục hồi và không phải mọi công việc bị mất trong khủng hoảng đều trở lại. Một số người dân và doanh nghiệp cũng cần phải trả các khoản nợ phát sinh trong giai đoạn khủng hoảng… Với mô hình này, các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam sẽ phải khắc phục các khó khăn tài chính, sản xuất trong 1-2 năm tới. Tuy nhiên, đối với lĩnh vực như bất động sản, du lịch có thể theo mô hình chữ L, kéo dài hơn 2 năm. Nghĩa là ngay cả khi tác động của dịch bệnh giảm dần, khả năng suy thoái sẽ kéo dài hơn dự kiến hoặc sự phục hồi mất nhiều thời gian hơn. Trong kịch bản này, người dân và doanh nghiệp sẽ tiếp tục cắt giảm chi tiêu. Các khoản nợ phát sinh trước hoặc trong giai đoạn khủng hoảng trở nên khó trả, tạo ra vòng xoáy vỡ nợ và phá sản… Theo đó, Chính phủ sẽ phải cung cấp nhiều sự hỗ trợ hơn sau khi những nỗ lực trước đó chưa thể xoa dịu tình hình, cần chú ý điều này cũng cần thời gian để thực hiện. Nói chung, dù Chính phủ có tích cực đến đâu đi nữa thì lãnh đạo các doanh nghiệp cần nhớ rằng không ai giải quyết tốt nhất những khó khăn của doanh nghiệp bằng chính mình.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *